-
- Tổng tiền thanh toán:
LOẠN THẦN NGẮN GIỮA CƠN
Tác giả: Bích Ngọc Ngày đăng: 04/06/2024
Tai biến mạch máu não là một trong những căn bệnh phổ biến gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe mà rất nhiều người gặp phải đặc biệt là người lớn tuổi. Vì vậy để có cách phòng ngừa căn bệnh này hiệu quả chúng ta cần phải tìm hiểu, nắm rõ về các giai đoạn của bệnh. Bài viết dưới đây là những thông tin cần thiết LOẠN THẦN NGẮN GIỮA CƠN Mời các bạn cùng theo dõi.
1. LOẠN THẦN NGẮN GIỮA CƠN
Xuất hiện khi cơn xảy ra thưa hoặc hoàn toàn bị kiểm soát. Các triệu chứng loạn thần có thể kéo dài từ vài ngày đến vài tuần, thường tự khỏi và việc phân biệt nó với loạn thần sau cơn đôi khi rất khó. Về phương diện mô tả thì đây là loại loạn thần thay thế, nghĩa là các đợt loạn thần ngắn thay thế cho các cơn động kinh và động kinh cùng loạn thần được xem là 2 mặt đối kháng nhau. Nó được đặc trưng bởi nhiều hoang tưởng và ảo thanh nhưng cũng có các rối loạn khác như các triệu chứng về cảm xúc. Tellenbach đã ghi nhận sự xuất hiện các triệu chứng như mất ngủ, lo âu, cảm giác đè nặng và thu rút xuất hiện trước triệu chứng loạn thần và Wolf cho rằng điều trị với thuốc giải lo âu trong giai đoạn này có thể ngăn cản được tình trạng loạn thần. Không giống như loạn thần sau cơn, tình trạng loạn thần này sẽ mất khi xuất hiện một hoặc nhiều hơn các cơn động kinh.
Khái niệm “bình thường hóa áp đặt” được đề xuất bởi Landolt qua một nhận xét khó hiểu là EEG của bệnh nhân thường thấy ít có biểu hiện bất thường hơn trong khi hành vi lại thay đổi nghiêm trọng. Hiện tượng này còn gọi là “bình thường hóa kịch phát” đã được báo cáo bởi nhiều tác giả với các ghi nhận thêm (1) EEG trở nên gần như bình thường hơn là bình thường, (2) lâm sàng không phải lúc nào cũng là biểu hiện loạn thần mà còn có các rối loạn khác như các triệu chứng về cảm xúc, tình trạng lo âu hoặc tình trạng phân ly, các rối loạn về hành vi cũng có thể xuất hiện, (3) không phải tất cả loạn thần ngắn giữa cơn có các biểu hiện trên. Loạn thần thay thế không phải thường gặp, Schmitz và Wolf ghi nhận chỉ có 3 trường hợp có loạn thần thay thế trong tổng số 697 bệnh nhân động kinh. Các bệnh nhân bị loạn thần ngắn giữa cơn được ghi nhận có cả động kinh cục bộ phức tạp hoặc động kinh toàn thể nguyên phát. Trong khi động kinh thái dương rất thường gặp thì tác giả Wolf nhấn mạnh rằng các bệnh nhân này đã từng có cơn toàn thể hóa thứ phát. Kanemoto và cộng sự ghi nhân việc thường gặp mesial temporal sclerosis ở bệnh nhân có cơn loạn thần ngắn giữa cơn và các bệnh nhân này thường phát bệnh trước 10 tuổi.
2. LOẠN THẦN MÃN GIỮA CƠN
Theo công trình nghiên cứu của Slater và cộng sự thì tỷ lệ loạn thần giống phân liệt trên bệnh nhân động kinh từ 6 – 12 lần cao hơn so với tỷ lệ tâm thần phân liệt trong dân số chung.
Một số công trình cho thấy các bệnh nhân bị động kinh thái dương có tỷ lệ loạn thần cao nhưng mẫu nghiên cứu còn ít. Theo tác giả Stevens thì tỷ lệ loạn thần trong động kinh thái dương cũng không thấy cao hơn so với tỷ lệ loạn thần trong động kinh nói chung. Một nghiên cứu của Mendez và cộng sự lại cho thấy tỷ lệ loạn thần cao ở nhóm động kinh cục bộ phức tạp hơn là động kinh thái dương. Các công trình nghiên cứu của Kristensen và Sindrup đã ghi nhận tổn thương phần lớn ở vùng mediobasal temporal. Tác giả Flor và Henry lại nhận thấy phần lớn tổn thương ở bán cầu trái. Thường các triệu chứng xuất hiện sau 10 – 14 năm và thường ghi nhận trên các trường hợp bị động kinh nặng, thường có cùng lúc nhiều loại động kinh, trong tiền sử đã từng bị trạng thái động kinh liên tục hoặc động kinh kháng trị. Tần số cơn động kinh lúc xãy ra triệu chứng loạn thần cũng thay đổi. Một số tác giả ghi nhận thấy có tình trạng cải thiện cơn động kinh trong khi một số lại thấy có sự liên hệ giữa biểu hiện loạn thần và tần số cơn động kinh. Thường ghi nhận loạn thần ở phái nữ, nhân cách trước khi bệnh bình thường..
3. RỐI LOẠN KHÍ SẮC
Có thể xuất hiện ở giai đoạn tiền triệu, cơn thoáng, trong cơn hoặc sau cơn. Cơn thoáng trong động kinh thái dương có thể đi kèm với rối loạn khí sắc thường lo âu hoặc sợ hãi mặc dù đôi khi có thể có trầm cảm và hiếm hơn là cảm xúc hưng phấn.
Trầm cảm sau cơn thường được ghi nhận. Chúng thường xuất hiện trong các giai đoạn ngắn kéo dài từ vài phút đến vài giờ.
Rối loạn khí sắc trong giai đoạn giữa cơn không được hiểu biết nhiều như trong biểu hiện loạn thần. Nhiều tác giả cho rằng ở các bệnh nhân đều có xu hướng lo âu hoặc trầm cảm. Trên 1 nghiên cứu các bệnh nhân có biểu hiện rối loạn trầm cảm nặng ở bệnh nhân động kinh người ta nhận thấy ít nhất ½ bệnh nhân có tiền sử có rối loạn khí sắc và không thấy có sự tương quan giữa mức độ trầm cảm và loại động kinh, tần số động kinh, ổ động kinh hoặc tuổi phát bệnh động kinh. Một số công trình lại không thấy có sự tăng cao trầm cảm ở bệnh nhân động kinh. Theo tác giả Nowack, trầm cảm trong động kinh có những nét sau: có nhiều triệu chứng loạn thần, triệu chứng lo âu nổi bật, cảm xúc thù nghịch cùng mặc cảm tội lỗi gặp nhiều, xuất hiện đột ngột và các triệu chứng tồn tại trong một thời gian ngắn. Các bệnh nhân thường gặp là động kinh thái dương với các cơn thoáng có các triệu chứng thần kinh thực vật. Bệnh nhân có tiền sử gia đình bị trầm cảm. Nhiều tác giả ghi nhận ổ động kinh thường ở bán cầu chiếm ưu thế.
Điều trị bao gồm việc đánh giá lại chế độ và liều lượng thuốc chống động kinh. Cải thiện được việc kiểm soát cơn sẽ làm giảm tỷ lệ trầm cảm trong cơn. Tương tự với hiện tượng loạn thần thay thế, việc trầm cảm xuất hiện trong giai đoạn ổn định cơn động kinh cũng đã được ghi nhận. Người ta đã ghi nhận một số thuốc chống động kinh cũng có thể gây trầm cảm như Phenobarbital, Phenyltoin, Vigabatrin.
Với tình trạng trầm cảm nặng đôi khi phải sử dụng đến các thuốc chống trầm cảm. Lưu ý các thuốc chống trầm cảm đều giảm ngưỡng động kinh. Maprotyline và Amoxapine gây nhiều nguy cơ làm tăng cơn động kinh, các thuốc khác như Doxepine, Trazodone và Fluvoxamine tương đối an toàn hơn.
Người ta ghi nhận một tỷ lệ tự sát rất cao ở bệnh nhân động kinh. Nó cao hơn gấp 5 lần so với dân số chung. Ơ bệnh nhân có động kinh thái dương tỷ lệ tự sát cao gấp 25 lần mặc dù căn nguyên vẫn chưa rõ.
4. RỐI LOẠN NHÂN CÁCH
Mặc dù rất nhiều tác giả ghi nhận các rối loạn nhân cách trong bệnh động kinh, tuy vậy các ghi nhận này vẫn chưa được hệ thống hóa.
Các loại rối loạn hành vi giữa cơn ở động kinh thái dương đã được mô tả gồm 4 nhóm chính:
- Thay đổi về tính dục thường là giảm ham muốn nhưng đôi khi lại có gia tăng tình dục hoặc lệch lạc tình dục
- Tăng các hoạt động tín ngưỡng, đắm chìm trong các điều giáo lý hoặc đôi khi có hiện tượng rối loạn chuyển dạng mang màu sắc tôn giáo
- Say mê viết lách, bệnh nhân viết liên tục không nghỉ ngơi
- Tư duy lai nhai hoặc vòng vo
Hội chứng Geschwind gặp trong động kinh thái dương bao gồm tư duy lai nhai hoặc vòng vo, viết nhiều và hiếm gặp hơn là trở nên cuồng tín.
5. RỐI LOẠN VỀ NHẬN THỨC
Trước đây người ta nghĩ rằng trong động kinh có sự suy giảm tiến triển trong nhận thức. Tuy vậy, các nghiên cứu mới đây đã không chứng tỏ được điều này. Có 1 nhóm bệnh nhân động kinh có chỉ số IQ thấp hơn so với bình thường. Điều này có lẽ do nhiều yếu tố như do nguồn gốc tổn thương thực thể của não bộ, các rối loạn chức năng do động kinh và tác dụng phụ của thuốc. Nhiều loại thuốc chống động kinh như Ethosuximide, Phenytoin, Phenobarbital và Carbamazepine đã chứng tỏ có ảnh hưởng xấu trên sự tập trung, trí nhớ, tốc độ cử động nếu sử dụng lâu dài. Sa sút trong động kinh mặc dù hiếm, được mô tả ở bệnh nhân có tổn thương thực thể não bộ hoặc bệnh nhân không kiểm soát được cơn. Có lẽ do các cơn thiếu oxy kéo dài do các cơn động kinh hoặc do sử dụng các thuốc chống động kinh liều cao. Phenytoin đặc biệt có thể gây thoái hóa tiểu não nếu sử dụng sau một thời gian dài.
Chi tiết xem thêm tại: >>> BENCEDA - Tăng cường chức năng não - Hộp 60 viên
Công dụng của BENCEDA:
+ Giúp cho bộ não hoạt động hiệu quả nhanh chóng, học nhanh hơn và củng cố bộ nhớ hiệu quả hơn, giảm căng thẳng, áp lực trong công việc.
+ Hỗ trợ hoạt huyết, tăng tuần hoàn não, cải thiện chức năng của não.
+ Hỗ trợ giảm các triệu chứng do thiểu năng tuần hoàn não
+ Hỗ trợ phục hồi sau tai biến mạch máu não.
+ Hỗ trợ điều trị rối loạn tiền đình
+ Phòng ngừa các chứng rối loạn trí nhớ bao gồm Alzheimer.
Đối tượng sử dụng:
+ Người bị thiểu năng tuần hoàn não có các triệu chứng đau đầu, chóng mặt, hoa mắt.
+ Người bị suy giảm trí nhớ, rối loạn tiền đình, tê bì chân tay.
+ Người sau tai biến mạch máu não do tắc mạch.
+ Người bị bệnh rối loạn trí nhớ Alzheimer.
Trên đây là toàn bộ thông tin hữu ích về LOẠN THẦN NGẮN GIỮA CƠN Hy vọng rằng bài viết sẽ giúp được các bạn trong việc phát hiện và phòng ngừa căn bệnh nguy hiểm này