-
- Tổng tiền thanh toán:
Bệnh sử hiện tại của run tay liên quan đến thần kinh
Tác giả: Bích Ngọc Ngày đăng: 02/04/2024
Tai biến mạch máu não là một trong những căn bệnh phổ biến gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe mà rất nhiều người gặp phải đặc biệt là người lớn tuổi. Vì vậy để có cách phòng ngừa căn bệnh này hiệu quả chúng ta cần phải tìm hiểu, nắm rõ về các giai đoạn của bệnh. Bài viết dưới đây là những thông tin cần thiết Chứng run tay ở người trẻ tuổi và cách điều trị Mời các bạn cùng theo dõi.
1. Bệnh sử
-
Tính chất khởi phát (ví dụ, dần dần, đột ngột)
-
Tuổi khởi phát
-
Phần cơ thể bị ảnh hưởng
-
Các yếu tố khởi phát (vận động, nghỉ ngơi, đứng dậy)
-
Yếu tố giảm bớt hoặc tăng nặng triệu chứng (ví dụ: cồn, caffein, căng thẳng, lo lắng)
Nếu khởi phát đột ngột, bệnh nhân cần được hỏi về các biến cố khởi phát run (ví dụ chấn thương hoặc bệnh gần đây, sử dụng một loại thuốc mới).
2. Đánh giá toàn diện
Đánh giá toàn diện các dấu hiệu sinh tồn, tìm kiếm các bất thường như nhịp nhanh, tăng huyết áp, sốt. Khám toàn trạng cần lưu ý đến tình trạng suy mòn, kích thích tâm thần vận động, và sự vắng mặt các biểu hiện trên khuôn mặt (chỉ ra tình trạng chậm vận động). Khám tuyến giáp để tìm hoặc đánh giá phì đại tuyến giáp nếu có, và cần lưu ý đến các dấu hiệu lồi mắt hoặc sa mí.
Đánh giá tập trung nhằm lưu ý đến sự phân bố và tần suất run khi
-
Phần chi thể có run ở trạng thái nghỉ và thả lỏng hoàn toàn (ví dụ, dái tai của bệnh nhân).
-
Bệnh nhân giữ một số tư thế nhất định (ví dụ, giữ tay duỗi ra).
-
Đi lại hoặc làm các động tác với phần cơ thể bị ảnh hưởng.
Người khám nên lưu ý xem run có thay đổi hay không khi thực hiện các thao tác gây phân tâm (ví dụ, 100 trừ 7 nối tiếp). Quan sát chất lượng của giọng nói khi bệnh nhân đọc một đoạn dài.
3. Các dấu hiệu cảnh báo
Những phát hiện sau đây cần được quan tâm đặc biệt:
-
Khởi phát đột ngột
-
Khởi phát ở người < 50 tuổi và không có tiền sử gia đình run lành tính
-
Các tổn thương thần kinh khác (ví dụ như thay đổi trạng thái tinh thần, liệt vận động, liệt thần kinh sọ, thất điều dáng đi, loạn vận ngôn)
-
Nhịp nhanh và kích độn
4. Những triệu chứng sau có thể giúp gợi ý căn nguyên của run:
-
Khởi phát đột ngột là điển hình nhất của run do tâm lý sau khi các quá trình bệnh lý đã được loại trừ.
-
Run tiến triển từng nấc gợi ý bệnh lý nhồi máu hoặc xơ cứng rải rác
-
Run tiến triển sau khi sử dụng một loại thuốc mới gợi ý rằng thuốc đó chính là căn nguyên.
-
Khởi phát run kèm nhịp kích động, nhịp tim nhanh, và tăng huyết áp trong vòng 24 đến 72 giờ sau nhập viện có thể gợi ý đến hội chứng cai rượu, một loại thuốc an thần khác hoặc sử dụng chất kích thích bất hợp pháp.
Các dáng đi bất thường có thể gợi ý xơ cứng rải rác, đột quỵ, bệnh Parkinson, hoặc bệnh lý tiểu não. Dáng đi hẹp và lê chân điển hình trong bệnh Parkinson, dáng đi rộng và thất điều điển hình trong bệnh lý tiểu não. Dáng đi có thể có tính hystery hoặc không đồng nhất ở những bệnh nhân run do tâm lý. Ở những bệnh nhân có run thật sự, dáng đi thường bình thường, nhưng dáng đi ngón chạm gót (đặt gót chân lên ngón chân) có thể là dáng đi bất thường.
5. Xét nghiệm
Ở phần lớn bệnh nhân, tiền sử và khám lâm sàng là đủ để xác định căn nguyên của run. Tuy nhiên, MRI hoặc CT não nên được thực hiện nếu
-
Khởi phát run cấp tính.
-
Tiến triển rất nhanh.
-
Các dấu hiệu thần kinh khu trú gợi ý một tổn thương cấu trúc (ví dụ, đột quỵ, u não, rối loạn thoái hóa myelin).
Khi nguyên nhân của run không rõ (dựa trên tiền sử và khám lâm sàng), cần thực hiện xét nghiệm:
-
Hormon kích thích tuyến giáp (TSH) và thyroxine (T4) để đánh giá tình trạng cường giáp.
-
Canxi và hormon tuyến cận giáp được đo để kiểm tra cường cận giáp hoặc suy tuyến cận giáp.
-
Xét nghiệm glucose để loại trừ tình trạng hạ đường huyết.
Ở bệnh não nhiễm độc, bệnh lý căn nguyên thường biểu hiện rõ, nhưng việc xét nghiệm nồng độ urea nitrogen máu và amoniac máu có thể giúp chẩn đoán nguyên nhân. Đo metanephrines tự do trong huyết tương được chỉ định ở bệnh nhân tăng huyết áp kháng trị không giải thích được. Nên đo nồng độ ceruloplasmin huyết thanh và đồng trong nước tiểu để kiểm tra nếu bệnh nhân < 40 tuổi và run không rõ nguyên nhân, đặc biệt nếu run có đặc điểm như đập cánh (có hoặc không kèm theo hội chứng liệt rung parkinson và rối loạn trương lực) và không có tiền sử gia đình bị run lành tính. (Đập cánh là hiện tượng run cánh tay tần số thấp, biên độ cao, do tư thế gây ra, gây ra bằng cách kéo dài cánh tay, với khuỷu tay và lòng bàn tay gập lại.)
Mặc dù điện cơ (EMG) có thể phân biệt được run thực chất với các bệnh lý vận động (rung giật cơ, co giật, trạng thái động kinh cục bộ), nhưng hiếm khi cần sử dụng xét nghiệm này trong chẩn đoán. Tuy nhiên, EMG có thể giúp chẩn đoán xác định nguyên nhân gây ra run nếu nghi ngờ bệnh lý thần kinh ngoại vi.
6. Điều trị run
6.1 Run sinh lý
Không cần điều trị trừ khi các triệu chứng trở nên khó chịu. Tránh các yếu tố khởi phát (như caffein, mệt mỏi, thiếu ngủ, thuốc căng thẳng và lo lắng nếu có thể) có thể giúp ngăn ngừa hoặc giảm các triệu chứng.
Run sinh lý tăng do cai rượu hoặc cường giáp, và bằng cách sử dụng thuốc và các điều kiện có thể gây ra run. Run đỡ khi điều trị bệnh nền.
Các thuốc benzodiazepine đường uống (ví dụ, diazepam 2 đến 10 mg, lorazepam 1 đến 2 mg, oxazepam 10 đến 30 mg) 3 hoặc 4 lần mỗi ngày có thể có hiệu quả cho bệnh nhân run có lo âu mạn tính, tuy nhiên nên tránh sử dụng liên tục. Propranolol (20 đến 80 mg/lần uống 4 lần mỗi ngày) và các thuốc chẹn beta khác thường có hiệu quả đối với run cấp tính do thuốc hoặc lo âu (ví dụ như sợ hãi khi đứng trước đám đông).
6.2 Run vô căn
Propranolol 20 đến 80 mg uống 4 lần mỗi ngày (hoặc thuốc chẹn beta khác) thường có hiệu quả, hoặc primidone 50 đến 250 mg/lần uống 3 lần/ngày. Đối với một số bệnh nhân, một lượng nhỏ rượu có thể có hiệu quả; tuy nhiên, không khuyến khích sử dụng rượu trong điều trị vì nguy cơ lạm dụng.
Thuốc hàng thứ hai là topiramate 25 đến 100 mg uống 2 lần/ngày và gabapentin 300 mg uống 2 hoặc 3 lần một ngày. Có thể thêm Benzodiazepine nếu các thuốc khác không kiểm soát được run.
6.3 Run tiểu não
Không có thuốc nào điều trị có hiệu quả; vật lý trị liệu (ví dụ, tập có kháng trở chi bị ảnh hưởng, hướng dẫn bệnh nhân cố định chắc các gốc chi khi cử động) đôi khi có tác dụng.
7. Vô hiệu hoá run
Đối với những cơn run nặng, gây tàn tật và kháng thuốc, có thể được cân nhắc xạ phẫu đích mở đồi thị một bên hoặc kích thích não sâu kéo dài tại đồi thị một hoặc hai bên.
Run loạn trương lực có thể đáp ứng tốt hơn với phẫu thuật thần kinh chức năng nhắm vào phần trong của bèo nhạt.
Trong bệnh Parkinson, triệu chứng run giảm đi đáng kể sau kích thích sâu đồi thị, phần trong bèo nhạt hoặc nhân hạ đồi.
Mặc dù các kỹ thuật này giờ đã trở nên phổ biến, chỉ nên sử dụng sau khi điều trị nội khoa tối ưu thất bại, và chỉ ở những bệnh nhân không bị suy giảm nhận thức hoặc rối loạn tâm thần.
Run nguồn gốc tâm thần
Đối với bệnh nhân run do tâm lý, loại bỏ run bằng đánh lạc hướng có thể có tác dụng. Phương pháp điều trị này đề cập đến việc thay đổi hoặc loại bỏ chứng run khi bệnh nhân thực hiện một cử động nhịp nhàng tự nguyện của chi không bị ảnh hưởng
Người bệnh tai biến mạch máu não tham khảo sử dụng sản phẩm Benceda:
Chi tiết xem thêm tại: >>> BENCEDA - Tăng cường chức năng não - Hộp 60 viên
Công dụng của BENCEDA:
+ Giúp cho bộ não hoạt động hiệu quả nhanh chóng, học nhanh hơn và củng cố bộ nhớ hiệu quả hơn, giảm căng thẳng, áp lực trong công việc.
+ Hỗ trợ hoạt huyết, tăng tuần hoàn não, cải thiện chức năng của não.
+ Hỗ trợ giảm các triệu chứng do thiểu năng tuần hoàn não
+ Hỗ trợ phục hồi sau tai biến mạch máu não.
+ Hỗ trợ điều trị rối loạn tiền đình
+ Phòng ngừa các chứng rối loạn trí nhớ bao gồm Alzheimer.
Đối tượng sử dụng:
+ Người bị thiểu năng tuần hoàn não có các triệu chứng đau đầu, chóng mặt, hoa mắt.
+ Người bị suy giảm trí nhớ, rối loạn tiền đình, tê bì chân tay.
+ Người sau tai biến mạch máu não do tắc mạch.
+ Người bị bệnh rối loạn trí nhớ Alzheimer.
Trên đây là toàn bộ thông tin hữu ích về Bệnh sử hiện tại của run tay liên quan đến thần kinh Hy vọng rằng bài viết sẽ giúp được các bạn trong việc phát hiện và phòng ngừa căn bệnh nguy hiểm này